Giải phẫu đĩa đệm
Đĩa đệm có hình thấu kính hai mặt lồi, xung quanh được cấu tạo từ 15 - 20 lớp đan chéo nhau.
Ở ngoại vi các sợi của vòng sợi chạy chếch nhưng độ chếch giảm dần đến chạy ngang khi vào gần trung tâm. Điều này giúp các lớp vòng sợi trong chịu được lực nén, còn lớp vòng sợi ngoài tạo sự bền chắc.
Vòng sợi tạo thành vỏ bọc rất chắc nhưng lại có tính đàn hồi, chỗ yếu nhất của vòng sợi là phía sau, do ở đó các sợi collagen sắp xếp ít hơn.
Nhân nhầy ở trung tâm đĩa đệm là một tổ chức keo có thể dồn đi dồn lại được.
Đĩa đệm có chức năng như một giảm sóc thủy lực giữa hai thân đốt sống và giúp cho đốt sống chuyển động theo các chiều.
Khi chịu lực theo chiều dọc, đĩa đệm dẹt lại, lực dàn đều ra xung quanh. Khi lực tác động giảm, đĩa đệm phồng trở lại do tính đàn hồi của sợi collagen và elastin
Khi cúi đĩa đệm bị ép ở phía trước, nhân nhầy chuyển dịch về phía sau. Khi ưỡn, địa đệm mở rộng ở phía trước nhân nhầy chuyển động dồn về phía trước.
Cơ chế gây thoái hóa đĩa đệm
Các mạch máu nuôi đĩa đệm bị teo dần và xơ hóa, đĩa đệm không còn mạch máu nuôi dưỡng mà được nuôi dưỡng bởi dịch thấm từ thân đốt sống qua lớp sụn.
Đĩa đệm luôn phải chịu tải với áp lực lớn hơn áp lực của dòng máu nên máu không thể chảy vào đĩa đệm được.
Nhân nhầy và vòng sợi không có phân bố thần kinh nên khi bị nến hay nứt vỡ không gây cảm giác đau.
Khi đĩa đệm bị quá tải áp lực hoặc bị thoái hóa hoặc nứt vỡ cũng không gây ra cảm giác gì. Chính vì vậy mà đĩa đệm âm thầm thoái hóa cho đến khi xuất hiện tổn thương cho các mô xung quanh mới bị phát hiện.
Dịch nuôi đãi đệm được lưu thông chủ yếu do thay đổi áp lực cơ học lên đĩa đệm và lực đàn hồi của sợi collagen trong vòng sợi.
Khi áp lực đĩa đệm thấp, các sợi collagen của vòng sợi co lại làm đĩa đệm phồng trở lại tạo lực hút dịch thấm vào. Khi đĩa đệm chịu sức nén cơ học, áp lực thủy tĩnh trong đĩa đệm tăng, làm dịch thoát ra khỏi đĩa đệm. Như vậy, khi chất lượng của các sợi collagen của vòng sợi giảm làm giảm tính đàn hồi thì dịch thấm vào nuôi dưỡng đĩa đệm giảm tạo ra vòng xoáy bệnh lý làm tăng quá trình thoái hóa đĩa đệm.
Khi tuổi càng cao thì dinh dưỡng cho đĩa đệm càng kém dần. Quá trình lão hóa làm suy yếu vòng sợi, nhân nhầy và cả mô xương dưới sụn.
Đĩa đệm giảm tính đàn hồi, mất nước, xẹp dần làm khoang gian đốt sống hẹp dần lại. Khả năng chịu lực giảm, mọi tác động quá mức của lực cơ học đều dễ gây ra tổn thương cho đĩa đệm như nứt rách vòng sợi và có thể gây ra lồi hoặc thoát vị đĩa đệm.
Nhân nhầy là glucoprotein ngậm nước, tạo thành một dạng keo đặc. Ở người trẻ, 90% trọng lượng của nhân nhầy là nước. Người cao tuổi lượng nước trong đĩa đệm giảm dần làm nhân nhầy khô hơn, co nhỏ và bở, mất khả năng căng phồng. Khi cắt ngang đĩa đệm, nhân nhầy không còn phồng lồi lên mặt cắt như ở người trẻ.
Vì đĩa đệm giảm tính đàn hồi, chiều cao đĩa đệm giảm, lực cơ học có thể truyền qua đĩa đệm tác động lên sụn bề mặt thân đốt sống và mô xương dưới sụn gây tổn thương lún nứt, kích thích phản ứng của mô xương dưới sụn.
Giai đoạn sớm thấy tăng vi sinh mạch máu của mô xương dưới sụn ở vùng khe sụn tiếp giáp với xương.
Tiếp theo là giai đoạn thiếu máu mạn tính của mô xương dưới sụn gây ra các hoại tử xương vi thể ở vùng mô xương dưới sụn.
Giai đoạn muộn, thấy lắng đọng calci ở mô xương dưới sụn. Giai đoạn này thấy được trên phim chụp X-quang thường quy là hình ảnh đặc xương dưới sụn ở bề mặt thân đốt sống.
Yếu tố nguy cơ
Tuổi: Phổ biến ở tuổi trung niên
Hút thuốc: Làm giảm nồng độ oxy trong máu
Trọng lượng
Chiều cao: Nam > 180cm, nữ > 170cm
Nghề nghiệp
Nguyên nhân
Thoái hóa đĩa đệm là nguyên nhân cơ bản bên trong, tác động cơ học là nguyên nhân khởi phát bên ngoài và sự phối hợp của hai yếu tố đó là nguồn gốc phát sinh thoát vị đĩa đệm.
Nhận xét
Đăng nhận xét